- (1) Tiền sử bệnh ác tính và hóa trị hoặc xạ trị trước đó;
- (2) Ung thư biểu mô tuyến tụy di căn hoặc ung thư biểu mô tuyến tụy với bệnh ung thư khác;
- (3) Tiền sử nhiễm virus ( tức là vi rút viêm gan B, vi rút viêm gan C, vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người);
- (4) Sử dụng kháng sinh (bao gồm uống, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp) và chế phẩm sinh học trong vòng 4 tuần trước khi nhập học
- (5) Sử dụng corticosteroid (mũi hoặc hít) hoặc các chất ức chế miễn dịch khác.
- Chỉ một lần xét nghiệm gen có thể đánh giá về nguy cơ mắc của 16 loại ung thư phổ biến ở cả nam và nữ (ung thư phổi, ung thư đại trực tràng, ung thư vú, ung thư tuyến tụy, ung thư cổ tử cung, ung thư dạ dày, ung thư tiền liệt tuyến,....)
- Phát hiện sớm các dấu hiệu manh nha của ung thư thông qua chẩn đoán hình ảnh, nội soi và siêu âm.
- Thao tác khám đơn giản, cẩn thận và chính xác.
- Đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản nghề, đặc biệt là về ung thư, đủ khả năng làm chủ các ca khám chữa ung thư.
Hệ vi sinh vật trong miệng và ung thư tuyến tụy
Ung thư tuyến tụy hoặc ung thư biểu mô tuyến tụy (PDAC) là một căn bệnh gây chết người với tỷ lệ sống sót sau 5 năm khoảng 6%. Theo đó, hệ vi sinh vật trong miệng hoặc phân có thể là một dấu ấn sinh học chẩn đoán mới và tiềm năng về bệnh ung thư tuyến tụy.
1. Tổng quan
Ung thư tuyến tụy hoặc ung thư biểu mô tuyến tụy (PDAC) là một căn bệnh gây chết người với tỷ lệ sống sót sau 5 năm khoảng 6%. Phát hiện và chẩn đoán sớm là điều cần thiết để điều trị phẫu thuật hiệu quả giúp cải thiện khả năng sống sót của bệnh ung thư, tuy nhiên đây vẫn là một thách thức lớn. Nhiều phương pháp chẩn đoán có sẵn.
Ví dụ, giải trình tự deoxyrib-onucleic acid (DNA) để phát hiện và chẩn đoán ung thư tuyến tụy bị hạn chế trong sử dụng lâm sàng do nhu cầu về bệnh phẩm tươi, chất lượng cao, hàm lượng khối u và tính không đồng nhất của khối u. Các dấu hiệu phân tử, chẳng hạn như DNA đột biến hoặc DNA methylomes, cũng bị hạn chế trong việc sử dụng lâm sàng để nâng cao độ nhạy chẩn đoán hoặc phát hiện sớm tái phát ung thư tuyến tụy. Dấu ấn sinh học Ca19-9 thường được sử dụng để chẩn đoán và tiên lượng ung thư tuyến tụy với độ nhạy chẩn đoán là 0,78 và độ đặc hiệu là 0,77, nhưng xét nghiệm dấu ấn sinh học này có độ nhạy hạn chế ở những bệnh nhân bị vàng da, viêm tụy, viêm ruột và tăng đường huyết, vì những bệnh nhân này thường đã nâng lên nồng Ca19-9. Ngoài ra, quần thể 7% -10% Lewis (a- / b-) không thể biểu hiện Ca19-9.
2. Hệ vi khuẩn trong khoang miệng
Khoang miệng chứa gần 619 đơn vị phân loại trong 13 phyla (Firmicutes, Proteobacteria, Actinobacteria, Fusobacteria, Bacteroidetes, Chlamydiae, Chloroflexi, euryarchaeota, spirochaetes, SR1, Synergistes, Tenericutes, và TM7) và 68% trong số những vi khuẩn phylotypes hoang.
Giải trình tự bộ gen tiên tiến đối với sự phân bố hệ vi sinh vật trong miệng của con người giúp đo tỷ lệ các loài vi khuẩn mà không cần dựa vào các phương pháp nuôi cấy truyền thống. Nước bọt được phát hiện có chứa phổ vi khuẩn rộng với phương pháp lấy mẫu dễ dàng và tương đối hiệu quả về chi phí. Mặc dù có một số nghiên cứu về hệ thực vật miệng và ung thư tuyến tụy ở người, tác động của các yếu tố địa lý và y tế, chẳng hạn như chủng tộc và dân tộc, thói quen ăn uống khác nhau, sử dụng kháng sinh và ung thư, có thể làm cho cấu trúc vi khuẩn đường miệng khác nhau giữa mọi người. từ các vị trí địa lý khác nhau.
Hệ vi sinh vật trong miệng và ung thư tuyến tụy
3. Hệ vi sinh vật trong miệng hoặc phân có thể là một dấu ấn sinh học chẩn đoán mới và tiềm năng
Hồ sơ hệ vi sinh vật trong miệng hoặc phân của ung thư đường tiêu hóa và đại trực tràng, ung thư hầu họng, ung thư gan và ung thư phổi có thể là một dấu ấn sinh học chẩn đoán mới và tiềm năng. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các vi sinh vật đường tiêu hóa và miệng có sự khác biệt về mức độ phong phú ở bệnh nhân ung thư tuyến tụy so với những người khỏe mạnh. Nguy cơ ung thư tăng lên khi vận chuyển Porphyromonas gingivalis, Actinobacillus actinomycetemcomitans, và Alloprevotella, trong khi Fusobacterium, Leptotrichia, Neisseria elongate và Streptococcus mitis có thể là yếu tố bảo vệ bạn bị ung thư tuyến tụy.
Tuy nhiên, Olson và cộng sự không tìm thấy sự khác biệt đáng kể về tính đa dạng của hệ vi sinh vật đường miệng giữa bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy ( n = 40), u tế bào niêm mạc nhú nội ống (IPMN) ( n = 39) và những người tham gia khỏe mạnh ( n = 58) ở Hoa Kỳ. Những phát hiện mâu thuẫn trong các nghiên cứu trước đây có thể là do sự khác biệt trong cách tiếp cận phương pháp luận và thu thập mẫu. Ví dụ, một số nghiên cứu đã thực hiện phản ứng chuỗi polymerase định lượng theo thời gian thực (PCR) để xác nhận các ứng viên vi khuẩn và một số nghiên cứu giải trình tự cấu hình hệ vi sinh vật trong các mẫu phủ lưỡi hoặc mẫu rửa miệng.
4. Nghiên cứu nói gì?
Một nghiên cứu được tiến hành ở những bệnh nhân sống ở tỉnh Tứ Xuyên, tây nam Trung Quốc, thu nhận 80 bệnh nhân trên 18 tuổi và nghi ngờ có khối u tuyến tụy trước khi làm sinh thiết hoặc phẫu thuật. Kết quả mô bệnh học khẳng định 45 bệnh nhân có ung thư biểu mô tuyến tụy nguyên phát và 35 bệnh nhân có khối u tuyến tụy không phải ung thư, bao gồm 9 IPMN, 11 u nang huyết thanh tụy, 5 u nang giả đặc và 10 u nội tiết thần kinh. các tác giả cũng tuyển 69 người tham gia khỏe mạnh từ cộng đồng làm nhóm so sánh. Người lớn khỏe mạnh có chức năng gan và thận bình thường,chức năng tim-phổi bình thường, không có tiền sử ung thư và không bị nhiễm virus. Những người tham gia bị loại trừ nếu họ có:
5. Sự thay đổi phân loại vi khuẩn trong ung thư biểu mô tuyến tụy
Các tác giả đã sử dụng thuật toán kích thước hiệu ứng phân tích phân biệt tuyến tính để đánh giá thành phần phân loại vi khuẩn và sự khác biệt giữa nhóm ung thư biểu mô tuyến tụy và đối tượng kiểm soát khỏe mạnh. So với nhóm khỏe mạnh, bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy được làm giàu hơn đáng kể theo thứ tự_Lactobacillales, class_Bacilli, chi_ Streptococcus, phylum_Firmicutes, chi Actinomyces, chi Rothia, chi Leptotrichia, chi_ Lactobacillus, loài_ Escherichia_coli, và order_Enterobactees (Hình 2A ). Ngược lại, bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy đã giảm đáng kể lượng Selenomonas, Porphyromnas, Prevotella, Capnocytophaga, Alloprevotella, Tannerella và Neisseria ở cấp độ chi. Các tác giả cũng so sánh sự phân bố vi khuẩn giữa bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy và ung thư biểu mô tuyến tụy. Hình 2B cho thấy loài_ Escherichia coli, chi Peptostreptococcus, chi Asteroleplasma và loài_ Tannerella forstythia phổ biến hơn trong nhóm ung thư biểu mô tuyến tụ , trong khi các tác giả nhận thấy sự xuất hiện của loài_ Bacteroides stercoris, chi_ Megasphaera và chi Veillonella
Sự thay đổi phân loại vi khuẩn trong ung thư biểu mô tuyến tụy
Sự khác biệt trong cộng đồng vi sinh vật miệng giữa bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy và HC. Đường ngang có màu đỏ và xanh lá cây biểu thị phương tiện của các nhóm HC và ung thư biểu mô tuyến tụy. A: Hiển thị danh sách các vi khuẩn miệng cụ thể cho phép phân biệt giữa bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy (ung thư biểu mô tuyến tụy ) và đối chứng khỏe mạnh (HC). B: Ung thư biểu mô tuyến tụy có thể cắt bỏ được và ung thư biểu mô tuyến tụy không thể cắt bỏ được
6. Chứng loạn khuẩn của hệ vi sinh vật đường miệng tồn tại ở những bệnh nhân mắc chứng ung thư biểu mô tuyến tụy
Nghiên cứu tiền cứu này đã phát hiện ra chứng loạn khuẩn của hệ vi sinh vật đường miệng tồn tại ở những bệnh nhân mắc chứng ung thư biểu mô tuyến tụy. Hệ vi khuẩn trong phân là phương pháp lấy mẫu chính để nghiên cứu ung thư tuyến tụy. Nghiên cứu của các tác giả sử dụng phương pháp lấy mẫu nước bọt, thuận tiện và chất lượng mẫu dễ kiểm soát trong quá trình thu mẫu. Khi so sánh hồ sơ vi khuẩn từ mẫu nước bọt của các tác giả và mẫu phân từ nghiên cứu khác trên bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy Trung Quốc. Theo đó, hệ vi khuẩn đường ruột và nước bọt luôn có chỉ số Shannon thấp và chỉ số Chao1 cao, và Lactobacillus, Enterobacter và Leptotrichiaở cấp độ chi đã được tăng lên đáng kể. Điều này cung cấp bằng chứng hỗ trợ rằng phương pháp lấy mẫu nước bọt tạo ra các cấu trúc vi khuẩn tương tự so với phương pháp lấy mẫu phân, thường rất khó thu thập mẫu. Kết quả nghiên cứu của các tác giả cũng cung cấp thêm bằng chứng để khẳng định rằng Neisseria và Streptococcaceae là những yếu tố nguy cơ gây ung thư tuyến tụy.
7. Sự phong phú của hệ vi sinh vật và sự đa dạng của loài ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy
Về sự phong phú của hệ vi sinh vật và sự đa dạng của loài, nghiên cứu của các tác giả cho thấy rằng nhóm ung thư biểu mô tuyến tụy đã tăng đáng kể sự phong phú của vi sinh vật theo ước tính của chỉ số Chao1 và ACE và giảm sự đa dạng của vi sinh vật theo ước tính của chỉ số Shannon và Simpson. Lu và cộng sự cũng có những phát hiện tương tự từ một nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư tuyến tụy Trung Quốc bằng cách sử dụng các mẫu phủ lưỡi. Tuy nhiên, các nghiên cứu về dân số không phải người Trung Quốc không tìm thấy bất kỳ sự khác biệt nào về chỉ số đa dạng alpha của thành phần hệ vi sinh vật đường miệng giữa bệnh nhân ung thư tuyến tụy và người khỏe mạnh. Kết quả nghiên cứu của các tác giả và Lu và cộng sự đã chứng minh rằng bảy trong số mười bốn họ vi khuẩn (Leptotrichiaceae, Actinomycetaceae, Lachnospiraceae, Micrococcaceae, Erysipelotrichaceae, Coriobacteriaceae, Moraxellaceae ) đã tăng lên đáng kể và Porphyromonadaceae đã giảm đáng kể ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy Trung Quốc. Tuy nhiên, nghiên cứu của các tác giả phát hiện ra rằng sự phong phú của ba trong số mười bốn họ vi khuẩn (Fusobacteriaceae, Campylobacteraceae, Spirochaetaceae ) đã giảm đáng kể ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy, trong khi Lu và cộng sự nhận thấy sự phong phú hơn đáng kể. Cả nghiên cứu của các tác giả và nghiên cứu của Lu và cộng sự đều phát hiện ra sự gia tăng đáng kể của chiLeptotrichia, Actinomyces, Rothia, Rothia, Solobacterium, Peptostreptococcus và Oribacterium .
Torres và cộng sự tìm thấy Leptotrichia cao hơn và Porphyromonas thấp hơn trong nước bọt của bệnh nhân ung thư tuyến tụy, nhưng không tìm thấy sự khác biệt đáng kể nào trong sự biểu hiện của Streptococcus mitis và Granulicatella adiacens. Những phát hiện mâu thuẫn giữa nghiên cứu của các tác giả và các nghiên cứu khác có thể do các phương pháp thu thập mẫu khác nhau, ví dụ:, nước bọt và phương pháp phủ lưỡi. Nghiên cứu trong tương lai nên so sánh các phương pháp thu thập mẫu khác nhau để nghiên cứu hệ vi sinh vật. Ví dụ, nước bọt và phương pháp phủ lưỡi, tập trung vào tác động của vị trí địa lý, chủng tộc, chế độ ăn uống, sử dụng kháng sinh (bao gồm cả việc tiêu thụ các sản phẩm thịt có chứa kháng sinh), chấn thương, bệnh tật và sự thay đổi nội tiết tố trong phân tích hệ thực vật.
Hệ vi sinh vật nước bọt có thể phân biệt ung thư biểu mô tuyến tụy và các cá thể khỏe mạnh. Sự dồi dào Streptococcus và Leptotrichia cao hơn có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư biểu mô tuyến tụy. Veillonella và Neisseria là các yếu tố bảo vệ để phát hiện ung thư biểu mô tuyến tụy. Neisseria được tất cả các nghiên cứu công nhận là làm giảm nguy cơ ung thư tuyến tụy trong khi Leptotrichia được xác định trong nghiên cứu của các tác giả là một yếu tố tiên đoán ung thư biểu mô tuyến tụy tiềm năng. Bệnh nhân có triệu chứng có cấu hình vi khuẩn khác với bệnh nhân không có triệu chứng. Vì các triệu chứng của ung thư biểu mô tuyến tụy thường không đặc hiệu, nên kết hợp đánh giá triệu chứng và hệ vi sinh vật có thể giúp phát hiện sớm ung thư tuyến tụy. Hiểu được sự phân bố của hệ vi khuẩn là bước cần thiết để phát triển các kế hoạch điều trị bằng probiotic để giảm nguy cơ ung thư tuyến tụy.
Hiện nay, sàng lọc ung thư sớm được coi là biện pháp hoàn hảo trong việc phát hiện và điều trị kịp thời các loại ung thư. Giảm chi phí điều trị và nhất là giảm tỷ lệ tử vong ở người bệnh. Bệnh viện TWQĐ 108 luôn triển khai và giới thiệu tới khách hàng Gói Trung Tâm Tư Vấn Di Truyền và Sàng Lọc Ung Thư – Bệnh viện TWQĐ 108 giúp xét nghiệm gen, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm các chất chỉ điểm sinh học phát hiện khối u sớm.
Lựa chọn Gói sàng lọc ung thư sớm tại Trung Tâm Tư Vấn Di Truyền và Sàng Lọc Ung Thư- Bệnh viện TWQĐ 108, khách hàng sẽ được:
Để được hỗ trợ, tư vấn chi tiết xin vui lòng liên hệ với chúng tôi:
TRUNG TÂM TƯ VẤN DI TRUYỀN VÀ SÀNG LỌC UNG THƯ – BỆNH VIỆN TWQĐ108
Địa chỉ: số 1 Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Hotline:0865.898.108
Email: cgc@benhvien108.vn
Website: http://sanglocungthu108.vn
Thời gian làm việc: 6h30 – 17h00, từ thứ 2 đến thứ 6
Tài liệu tham khảo
Wei AL, Li M, Li GQ, Wang X, Hu WM, Li ZL, Yuan J, Liu HY, Zhou LL, Li K, Li A, Fu MR. Oral microbiome and pancreatic cancer. World J Gastroenterol 2020; 26(48): 7679-7692 [PMID: 33505144 DOI: 10.3748/wjg.v26.i48.7679]