- Nhánh 1 : IV paclitaxel 80 mg / m2 mỗi tuần cùng với carboplatin tĩnh mạch (AUC 6 )/ chu kỳ 3 tuần
- Nhánh 2 : IV paclitaxel 80 mg / m2 mỗi tuần với vùng IP carboplatin (AUC 6 ) chu kỳ 3 tuần
- Nhánh 3: IV paclitaxel 135 mg / m2 ngày 1, IP cisplatin 75 mg / m2 ngày 2 và IP paclitaxel 60 mg / m2 ngày 8 / chu kỳ 3 tuần
- Chỉ một lần xét nghiệm gen có thể đánh giá về nguy cơ mắc của 16 loại ung thư phổ biến ở cả nam và nữ (ung thư phổi, ung thư đại trực tràng, ung thư vú, ung thư tuyến tụy, ung thư cổ tử cung, ung thư dạ dày, ung thư tiền liệt tuyến,....)
- Phát hiện sớm các dấu hiệu manh nha của ung thư thông qua chẩn đoán hình ảnh, nội soi và siêu âm.
- Thao tác khám đơn giản, cẩn thận và chính xác.
- Đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản nghề, đặc biệt là về ung thư, đủ khả năng làm chủ các ca khám chữa ung thư.
Ung thư buồng trứng: Hóa trị trong phúc mạc hay hóa trị toàn thân?
Nghiên cứu mới dựa trên nghiên cứu trước đó cho thấy thời gian sống thêm được cải thiện đáng kể khi điều trị hóa trị phúc mạc so với liệu pháp hóa trị toàn thân.
1. Mục đích nghiên cứu so sánh hóa trị trong phúc mạc (IP) và hóa trị toàn thân (IV)
Một thử nghiệm lâm sàng pha III GOG – 252 của bác sĩ Walker và cộng sự (thuộc Trung tâm Khoa học Y tế Đại học Oklahoma) được đăng tải trên Tạp chí Ung thư lâm sàng và được báo cáo tại Hội nghị ASCO 2919 tại Chicago, Hoa kỳ. Nghiên cứu so sánh hai chế độ hóa trị trong phúc mạc (IP) và hóa trị toàn thân (IV) cho ung thư biểu mô buồng trứng. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về thời gian sống thêm không tiến triển ( PFS) giữa các nhóm. Phác đồ có carboplatin IV và IP được dung nạp tốt hơn cisplatin (2 thuốc đều cùng thuộc nhóm platin)
Mục đích: Đánh giá tác động của hai phác đồ hóa trị trong phúc mạc (IP) so với hóa trị toàn thân ( IV) để xem có khác nhau đối với sống thêm không tiến triển (PFS) ở những phụ nữ mắc ung thư biểu mô buồng trứng mới được chẩn đoán.
Hóa trị toàn thân IV thường được thực hiện thông qua ống thông hoặc cổng, đôi khi còn có sự giúp đỡ của một máy bơm
2. Phương pháp nghiên cứu
Từ tháng 7/2009 đến tháng 11/2011 , các bệnh nhân được phẫu thuật triệt căn , đủ điều kiện được phân ngẫu nhiên vào 1 trong 3 nhánh sau để điều trị tiếp bổ trợ thêm 6 chu kỳ hóa trị :
Tất cả bệnh nhân nhóm nghiên cứu đều được điều trị cùng với bevacizumab 15mg / kg IV mỗi 3 tuần / từ chu kỳ 2 đến chu kỳ 22 .
3. Kết quả nghiên cứu
Tổng cộng có 1.560 người tham gia và thời gian theo dõi 84,8 tháng . Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS) trung vị là 24,9 tháng ở nhánh carboplatin IV, 27,4 tháng ở nhánh carboplatin IP và 26,2 tháng ở nhánh cisplatin IP. Phân tích dưới nhóm trên 1.380 bệnh nhân giai đoạn II / III còn tổn thương nhỏ < 1cm ( sau phẫu thuật ), có PFS trung vị lần lượt là 26,9 (IV-carboplatin), 28,7 (IP-carboplatin) và 27,8 tháng (IP cisplatin) và thời gian sống thêm toàn bộ ( OS) trung vị cho những bệnh nhân này lần lượt là 35,9, 38,8 và 35,5 tháng.
Đối với nhóm hoàn toàn không còn tổn thương sau phẫu thuật triệt căn, thời gian sống thêm toàn bộ ( OS) trung vị cho 2 nhánh đầu lần lượt là là 98,8 tháng, 104,8 tháng và riêng nhánh thứ 3 chưa có con số .
Thời gian sống thêm toàn bộ ( OS) trung vị cho tất cả nghiên cứu cho 3 nhánh lần lượt là 75,5, 78,9 và 72,9 tháng .
Về các tác dụng phụ :
Độc tính độ 3 hay gặp hơn ở nhóm IP cisplatin (17,7%) và nhóm carboplatin IP (17,2%) so với nhóm carboplatin IV (11,5%; P = 0,008). Buồn nôn và nôn độ 3 hay gặp hơn (P <0,005) trong nhóm IP cisplatin so với nhóm carboplatin IV và IP carboplatin (11,0% so với 5,1% và 4,7%). Tăng huyết áp độ 3 hay gặp hơn (P <0,005) trong nhóm IP cisplatin so với nhóm carboplatin IV và IP carboplatin (20,5% so với 11,9% và 14,3%).
4. Kết luận của nghiên cứu
Theo nghiên cứu, điều trị ung thư buồng trứng bằng phương pháp hóa trị trong phúc mạc IP là lựa chọn tốt nhất
So với nhánh tham chiếu carboplatin IV, thời gian sống thêm không bệnh ( PFS) không tăng đáng kể so với chế độ IP khi kết hợp với bevacizumab. Nhánh bệnh nhân dung carboplatin được dung nạp tốt hơn nhánh cisplatin tại chỗ ( IP)
Mặc dù các lợi ích của hóa trị liệu tại màng bụng không thể hiện rõ trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên lớn này, nhưng theo nhà nghiên cứu liệu pháp IP vẫn có thể có lợi ở một số bệnh nhân.
Trong một bài viết về Ung thư, bác sĩ Sara Bouberhan thuộc Trung tâm y tế Beth Israel Deaconess ở Boston cho rằng việc bổ sung bevacizumab hoặc thay đổi các chi tiết cụ thể của lịch dùng thuốc có thể giải thích sự thiếu hiệu quả với liệu pháp IP. Bác sĩ lưu ý rằng có những thử nghiệm đang diễn ra có thể mang lại sự rõ ràng hơn về hiệu quả của các phương pháp điều trị .
Các nghiên cứu như thế này cho thấy cần có các chiến lược mới để cải thiện hơn nữa việc điều trị ung thư buồng trứng tiến triển. Việc nghiên cứu để tìm ra các thuốc chống ung thư mới như thuốc ức chế PARP và chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch sẽ là bước tiếp theo quan trọng trong việc cải thiện kết quả của bệnh nhân không may bị mắc căn bệnh này.
Hiện nay, sàng lọc ung thư sớm được coi là biện pháp hoàn hảo trong việc phát hiện và điều trị kịp thời các loại ung thư. Giảm chi phí điều trị và nhất là giảm tỷ lệ tử vong ở người bệnh. Bệnh viện TWQĐ 108 luôn triển khai và giới thiệu tới khách hàng Gói Trung Tâm Tư Vấn Di Truyền và Sàng Lọc Ung Thư – Bệnh viện TWQĐ 108 giúp xét nghiệm gen, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm các chất chỉ điểm sinh học phát hiện khối u sớm.
Lựa chọn Gói sàng lọc ung thư sớm tại Trung Tâm Tư Vấn Di Truyền và Sàng Lọc Ung Thư- Bệnh viện TWQĐ 108, khách hàng sẽ được:
Để được hỗ trợ, tư vấn chi tiết xin vui lòng liên hệ với chúng tôi:
TRUNG TÂM TƯ VẤN DI TRUYỀN VÀ SÀNG LỌC UNG THƯ – BỆNH VIỆN TWQĐ108
Địa chỉ: số 1 Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Hotline:0865.898.108
Email: cgc@benhvien108.vn
Website: http://sanglocungthu108.vn
Thời gian làm việc: 6h30 – 17h00, từ thứ 2 đến thứ 6
Nguồn : ASCO post 2019