Ung thư thực quản di căn xương

    Ung thư thực quản di căn xương

    Ung thư thực quản di căn đến xương rất hiếm gặp nhưng tiên lượng xấu. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để xác định các yếu tố nguy cơ độc lập giúp tiên lượng sự phát triển của ung thư thực quản di căn đến đâu nhưng kết quả còn mơ hồ. Trong khi đó, việc điều trị ung thư thực quản di căn xương bằng cách kết hợp xạ trị với hóa trị chỉ có thể cải thiện tiên lượng bệnh nhân từ 1 đến 8 tháng.

    1. Giới thiệu về ung thư thực quản

    Về mặt mô học, phần lớn ung thư thực quản được chia thành ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tuyến. Dù cho loại nào, ung thư thực quản nói chung cũng là loại ung thư đường tiêu hóa phổ biến thứ 5 và là loại ung thư phổ biến thứ 6 trên toàn thế giới. Khu vực có nguy cơ cao nhất, được gọi là “vành đai ung thư thực quản”, bao gồm các khu vực miền bắc Iran, miền nam nước Nga, các quốc gia Trung Á và miền bắc Trung Quốc, nơi ung thư tế bào vảy chiếm 90% tất cả các trường hợp. Trong khu vực nguy cơ này, ung thư thực quản là nguyên nhân phổ biến thứ 4 trong số các bệnh ung thư.

    Tiền sử hút thuốc, uống rượu và chế độ ăn ít trái cây, rau quả chiếm gần 90% trường hợp ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản. Ở các nước đang phát triển, các yếu tố nguy cơ ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản còn có tình trạng dinh dưỡng kém và uống đồ uống ở nhiệt độ cao. Nhiễm vi rút u nhú ở người (HPV) cũng có liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ mắc bệnh ung thư tế bào vảy của thực quản trên.

    Trong khi đó, hầu hết các ung thư biểu mô tuyến thực quản có nguồn gốc phát sinh từ bệnh chuyển sản Barrett, trong đó 80% trường hợp được cho là do tiền sử hút thuốc, chỉ số cơ thể cao, bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) và chế độ ăn ít trái cây, rau quả. Uống rượu không liên quan đến ung thư biểu mô tuyến. Chuyển sản thực quản Barrett có liên quan đến đa hình thái yếu tố tăng trưởng biểu bì, nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori và các tình trạng khác làm tăng tiếp xúc với axit thực quản, bao gồm hội chứng Zollinger-Ellison, bệnh xơ cứng bì, thuốc hoặc thủ thuật giãn cơ thắt thực quản dưới.

    2. Triệu chứng của ung thư thực quản

    Biểu hiện lâm sàng phổ biến nhất của cả ung thư biểu mô tuyến thực quản và ung thư biểu mô tế bào vảy là chứng khó nuốt thức ăn đặc tiến triển do ung thư tại chỗ lớn dần gây tắc nghẽn và chứng khó nuốt đối với chất lỏng biểu hiện ở giai đoạn nặng. Lúc này, sụt cân đáng kể là hậu quả của chứng khó nuốt, có thể là biểu hiện của bệnh tiến triển khiến nhiều bệnh nhân bị suy nhược tại thời điểm được chẩn đoán.

    Ngoài ra, người bệnh cũng có thể có các triệu chứng mơ hồ xuất hiện trước đó, chẳng hạn như cảm giác khó chịu hoặc nóng rát sau cổ họng. Các triệu chứng chảy máu, tiêu phân đen và thiếu máu có thể xuất hiện ở chẩn đoán phân biệt ban đầu như xuất huyết tiêu hóa. Tình trạng nôn trớ cũng có thể xảy ra nhưng hiếm khi gây ra viêm phổi do hít sặc. Một số bệnh nhân ung thư thực quản di căn khi xâm lấn thành khí quản gây rò rỉ dịch vị có thể biểu hiện lâm sàng với liệt dây thần kinh thanh quản, ho và/ hoặc viêm phổi tắc nghẽn.

    3. Cách thức chẩn đoán và điều trị ung thư thực quản

    Khám lâm sàng tập trung vào các hạch bạch huyết ở vùng thượng đòn và nách là điều cơ bản khi tiếp cận bệnh nhân nuốt nghẹn có nghi ngờ ung thư thực quản. Các bác sĩ lâm sàng có thể chọn bắt đầu với chụp X-quang ngực nuốt bari trên những bệnh nhân có dấu hiệu nghi ngờ. Tuy nhiên, phương tiện nội soi đường tiêu hoá trên ngày nay đã khá phổ biến, kết hợp với sinh thiết xâm lấn tối thiểu nên được thực hiện để xác định chẩn đoán.

    Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng nên được thực hiện để đánh giá mức độ lan rộng của khối u thực quản nguyên phát và tìm kiếm khả năng ung thư thực quản di căn đến đâu. Tuy nhiên, chụp cắt lớp vi tính không phù hợp để phân biệt độ sâu của khối u, độ nhạy của hạch bạch huyết kém và đôi khi không phát hiện được các di căn nhỏ, đặc biệt là trong phúc mạc hay ung thư thực quản di căn xương.

    Siêu âm nội soi đã trở thành tiêu chuẩn để phân đoạn vị trí, với độ chính xác lên đến 90% trong việc đánh giá độ sâu của khối u và di căn đến các hạch bạch huyết vùng trung thất. Ngoài ra, kỹ thuật này cũng cho phép sinh thiết chọc hút bằng kim nhỏ của các hạch bạch huyết đáng ngờ (hơn 1cm) để xác nhận sự hiện diện của ung thư thực quản di căn. Một hạn chế của siêu âm nội soi là nó không thể cắt ngang khối u nếu kích thước nhỏ.

    Để đánh giá ung thư thực quản di căn, CT chụp cắt lớp phát xạ positron (PET/ CT) đã trở thành một phần quan trọng của quá trình chẩn đoán. Ung thư biểu mô tuyến thường di căn đến các vị trí trong ổ bụng, trong khi ung thư biểu mô tế bào vảy thường di căn trong lồng ngực. Lúc này, PET cho phép phát hiện các vị trí ung thư thực quản di căn đến đâu và tránh cho bệnh nhân khỏi các phương pháp điều trị tích cực tại chỗ khi không cần thiết.

    Khi giai đoạn chẩn đoán trước phẫu thuật chính xác, các hướng dẫn lựa chọn phương pháp điều trị cho người bệnh ung thư thực quản sẽ thích hợp nhất. Trong các trường hợp, những khuyến nghị chung về điều trị ung thư thực quản như sau:

    • Cắt bỏ nội soi đối với bệnh nông, giới hạn niêm mạc;
    • Phẫu thuật cắt bỏ trực tiếp kết hợp với nạo vét hạch cho các tổn thương thâm nhập vào lớp dưới niêm mạc với các hạch bạch huyết âm tính;
    • Hóa xạ trị bổ trợ cho các tổn thương có thể cắt và xâm lấn vào lớp đệm cơ với các hạch bạch huyết dương tính;
    • Liệu pháp toàn thân giảm nhẹ cho những bệnh không thể cắt bỏ hoặc ung thư thực quản di căn tiến triển tại chỗ.

    4. Tổng quan về ung thư thực quản di căn đến xương

    Bất chấp những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị trong những thập kỷ gần đây, ung thư thực quản vẫn là một khối u ác tính gây tử vong cao, tiên lượng xấu. Khoảng một nửa số bệnh nhân bị ung thư thực quản di căn xa tại thời điểm chẩn đoán ban đầu và hơn 1/3 phát triển di căn xa sau phẫu thuật hoặc xạ trị. Mặc dù hóa trị là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho những bệnh nhân bị ung thư thực quản có di căn cơ quan xa, nhưng tiên lượng rất xấu với thời gian sống thêm tổng thể 5 năm là dưới 5%. Hầu hết các di căn xa của ung thư thực quản liên quan đến các hạch bạch huyết ở xa, gan và phổi.

    Xương là vị trí thường xuyên di căn do ung thư vú, tuyến tiền liệt và ung thư phổi hơn là ung thư thực quản. Dù cho bệnh lý ác tính nào, khi đã có tình trạng di căn xương, đây là dấu hiệu tiên lượng xấu. Nói riêng về ung thư thực quản di căn đến xương, vì tế bào ác tính thường di căn đến hệ thống xương muộn trong quá trình của bệnh nên bệnh nhân ung thư thực quản di căn đến xương phát hiện được tương đối không phổ biến. Một số nghiên cứu đã báo cáo tỷ lệ di căn đến xương dao động từ 5,2-7,7% ở bệnh nhân ung thư thực quản mọi giai đoạn và 15,3–23,6% ở bệnh nhân ung thư thực quản di căn xa. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành ung thư thực quản di căn xương đang có khuynh hướng ngày càng tăng do một phần lớn dân số là người cao tuổi.

    Những yếu tố nguy cơ độc lập chính của ung thư thực quản di căn xương đã được nghiên cứu là nam, thực quản giữa, có di căn não, không có di căn phổi và gan. So với những bệnh nhân có vị trí di căn khác như gan, não, phổi thì bệnh nhân ung thư thực quản di căn xương có tiên lượng xấu hơn. Nhóm bệnh nhân này nên được điều trị theo phương pháp đa mô thức, sử dụng các phương thức như xạ trị, phẫu thuật và hóa trị, liệu pháp hormone, các tác nhân điều chỉnh xương để có thể kéo dài thời gian tồn tại.

    Bên cạnh đó, ngoài tác động tại chỗ, ung thư thực quản di căn đến xương còn thường xuyên gây ra các biến cố liên quan đến xương độc lập, chẳng hạn như gãy xương bệnh lý, chèn ép tủy sống và tăng calci huyết, có thể phải xạ trị hoặc phẫu thuật, đồng thời làm giảm chức năng thể chất, chất lượng cuộc sống một cách đáng kể.

    Tóm lại, ung thư thực quản là một bệnh ác tính chết người với tỷ lệ sống sót rất thấp, ngay cả khi được điều trị. Hơn nữa, trong các vị trí ung thư thực quản di căn đến đâu, ung thư thực quản di căn xương hiếm gặp và càng làm suy giảm thêm tiên lượng bệnh. Việc phát hiện bệnh sớm và xác định các yếu tố nguy cơ độc lập đối với sự phát triển của ung thư thực quản di căn đến xương, phối hợp đa mô thức trong điều trị từ đầu hy vọng có thể kéo dài thêm thời gian sống cho người bệnh.

    Hiện nay, sàng lọc ung thư sớm được coi là biện pháp hoàn hảo trong việc phát hiện và điều trị kịp thời các loại ung thư. Giảm chi phí điều trị và nhất là giảm tỷ lệ tử vong ở người bệnh. Bệnh viện TWQĐ 108 luôn triển khai và giới thiệu tới khách hàng Gói Trung Tâm Tư Vấn Di Truyền và Sàng Lọc Ung Thư – Bệnh viện TWQĐ 108 giúp xét nghiệm gen, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm các chất chỉ điểm sinh học phát hiện khối u sớm.

    Lựa chọn Gói sàng lọc ung thư sớm tại Trung Tâm Tư Vấn Di Truyền và Sàng Lọc Ung Thư- Bệnh viện TWQĐ 108, khách hàng sẽ được:

    • Chỉ một lần xét nghiệm gen có thể đánh giá về nguy cơ mắc của 16 loại ung thư phổ biến ở cả nam và nữ (ung thư phổi, ung thư đại trực tràngung thư vú, ung thư tuyến tụy, ung thư cổ tử cungung thư dạ dàyung thư tiền liệt tuyến,....)
    • Phát hiện sớm các dấu hiệu manh nha của ung thư thông qua chẩn đoán hình ảnh, nội soi và siêu âm.
    • Thao tác khám đơn giản, cẩn thận và chính xác.
    • Đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản nghề, đặc biệt là về ung thư, đủ khả năng làm chủ các ca khám chữa ung thư.

    Để được hỗ trợ, tư vấn chi tiết xin vui lòng liên hệ với chúng tôi:

    TRUNG TÂM TƯ VẤN DI TRUYỀN VÀ SÀNG LỌC UNG THƯ – BỆNH VIỆN TWQĐ108

    Địa chỉ: số 1 Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

    Hotline:0865.898.108

    Email: cgc@benhvien108.vn

    Website: http://sanglocungthu108.vn

    Thời gian làm việc: 6h30 – 17h00, từ thứ 2 đến thứ 6

 Copyrights Thiet Ke Website by ungdungviet.vn